Trang nhất
  Xã Luận
  Đọc Báo Trong Nước
  Truyện Ngắn
  Kinh Tế
  Âm vang sử Việt
  Tin Thể Thao
  Y Học
  Tâm lý - Xã hội
  Công Nghệ
  Ẩm Thực

    Diễn Đàn Biển Đông
Bắc Kinh yêu cầu Manila ngừng khiêu khích ở Biển Đông
    Hình Ảnh Quê Nhà - Video Clip
Nồng ấm Tết cổ truyền dân tộc Khmer Chôl Chnăm Thmây
    Tin Thế Giới
Ấn Độ, Israel tiến hành diễn tập an ninh chung
    Tin Việt Nam
Lãnh đạo Việt Nam gửi điện thăm hỏi Campuchia sau vụ nổ kho đạn
    Tin Cộng Đồng
Nắng nóng kỷ lục tại nhiều bang của Ấn Độ
    Tin Hoa Kỳ
Mật vụ Mỹ lên kế hoạch bảo vệ trong trường hợp ông Trump bị giam giữ
    Văn Nghệ
Huế
    Điện Ảnh
Lý Hải trở thành đạo diễn nghìn tỷ đồng
    Âm Nhạc
Danh tính nữ ca sĩ Việt may mắn gặp Rosé (Blackpink), lại còn chiêu đãi fan ảnh cam thường
    Văn Học
Bắt học sinh đi học ngày nghỉ lễ Giỗ tổ Hùng Vương, hiệu trưởng bị xem xét kỷ luật

Thông Tin Tòa Soạn

Tổng biên tập:
Tiến Sĩ
Nguyễn Hữu Hoạt
Phụ Tá Tổng Biên Tập
Tiến Sĩ
Nhật Khánh Thy Nguyễn
Tổng Thư ký:
Quách Y Lành




   Hình Ảnh Quê Nhà - Video Clip
ĐỖ DUY NGỌC hồi ký (phần 3)
- Nhưng tiền đâu cậu có nhiều thế. Mấy tháng nay cậu ở đâu, làm gì???
- Từ từ rồi sẽ biết. Mình sẽ kể cho cậu nghe. Xong rồi mình sẽ về Đà Nẵng.


Chốn này không còn là chỗ dung thân của mình nữa rồi. Đã đến lúc  mình phải chấm dứt mọi sự giả dối. Mình sẽ nói hết sự thật cho ba mình. Chắc chắn sự thật sẽ làm cho ông cụ đau đớn, nhưng thế sẽ tốt  hơn, cho mình và cho cả ông cụ. 

Im lặng một lát, lấm lét nhìn quanh, Nhân ghé miệng sát tai tôi, thầm  thì: Mình đang bị truy nã.


5.


Mấy tháng trước, chúng tôi chia tay nhau vì cả hai đang lâm vào cảnh đói ăn thê thảm, Nhân bỏ đi và lang thang vào khu Chợ Lớn. Nhân kể là vào đó hi vọng sẽ không gặp ai quen, đồng thời mấy ông Ba Tàu chắc cũng có đời sống, sinh hoạt khá hơn người Việt, dễ kiếm cơm hơn. Nhưng suốt một ngày từ chợ Hòa Bình, rồi qua chợ Kim Biên đến chợ Bình Tây vẫn chưa kiếm được mối nào nhờ giúp việc. Nhân mở miệng đề nghị chủ hàng để được bốc vác thì chủ hàng nhìn Nhân đầy nghi ngờ. Bởi chàng ta  vẫn còn bỏ áo trong quần, nai nịt đầy đủ, chân còn mang đôi giày da  tuy đã cũ sờn, lại thêm cắp kính đen che đôi mắt sùm sụp. Ai lại tin 

người có vẻ trí thức như vậy chịu làm chuyện của người lao động. Chắc có mục đích gì đây. Nghe ngóng? Theo dõi?... Nghi là phải. Mà lúc này  xã hội mới hình thành một lối sợ mơ hồ và đầy nghi ngại với tất cả mọi người. Chẳng ai tin ai. Cũng may vỉa hè, quán sá, phố phường cũng  không thiếu những anh chàng có vẻ ngoài như vậy lê bước với khuôn mặt chán chường và tuyệt vọng. Cho nên Nhân cũng không bị để ý lắm.  




Trời tối, đói meo, Nhân lê  gót đến ghế đá cạnh tượng ông chủ họ  Quách, người lập ra ngôi chợ này. Bức tượng đã bị đem đi đâu mất, chỉ còn cái bệ tượng chơ vơ. Có ba người thanh niên đang ngồi nhậu trên đó. Họ  ngồi quanh, ở giữa có dĩa mồi là con gà luộc da vàng óng. Cuộc nhậu hình như mới bắt đầu, li rượu mới chuẩn bị xoay tua. Ngôi chợ vắng vẻ,  ánh đèn vàng vọt và âm thanh chỉ là tiếng chổi quét lẹt quẹt của người phu quét chợ. Nhân ngồi ở ghế đá nhìn lên, con gà hấp dẫn quá. Hắn nuốt nước bọt liên tục. Đã mấy lần quay đi và cũng đã nhiều lần nhìn 

lại. Con gà vẫn bóng lưỡng khêu gợi tênh hênh giữa chiếu nhậu…


Bỗng nhiên Nhân tì tay vào ghế đá, bắn người lên. Đôi chân vừa chạm đất quét ngang, con gà bay lên nằm gọn trong tay Nhân. Ba gã thanh niên quá bất ngờ, không kịp một phản ứng nào. Nhân ngoạm một miếng vào đùi gà, nhai nhồm nhoàm. Ba gã thanh niên đã định thần, cùng hét lớn  xông vào đứa đấm, đứa đá, đứa lên gối. Nhân vừa nhai, vừa cầm chắc con gà, xoay nhiều vòng, hai chân đạp hai gã gần nhất đang chồm tới, tay  còn lại đấm vào ngực gã kia. Ba tên bị bắn lui, kinh hoàng. Ba gã lại  tiếp tục hè nhau tấn công thêm mấy bận nữa, nhưng chẳng làm gì được Nhân. Nhân vừa nhai vừa né đòn, rồi ra đòn nhưng chỉ mấy miếng đấm đá  không nhằm chỗ hiểm. Cuối cùng cả bọn dừng tay. Gã râu xồm có vẻ đầu 

đàn hất hàm nhưng trong giọng nói có chút vị nể: 

- Ông bạn ở đâu mà dám đến đây cướp gà của tụi này? 

Nhân dừng nhai: 

- Tôi đói quá, định xin mấy người anh em chút gì bỏ bụng, nhưng biết chắc là khó nên đành cướp vậy. Có gì các anh thứ lỗi. 

- Ông ở băng nào mà ngón nghề cũng oách quá vậy? 

- Chẳng có băng nào cả, thất nghiệp lang thang thôi….  




Lời qua tiếng lại một hồi, hiểu được nhau. Giang hồ vốn trọng người  tài, nên rồi cả bọn ngồi chung chiếu, nhậu suốt đêm thâu. Từ đó, Nhân nhập băng, lần hồi nhờ tài võ nghệ cộng với trí thông minh, hắn trở thành đại ca của băng chợ Bình Tây, từ từ lan ra một vùng khá rộng của khu Chợ Lớn, dưới trướng có vài chục đàn em, cùng nhau hành hiệp. Lúc đầu chỉ quanh quẩn công việc ở các chợ, lần lần nhảy vào bán mua, rồi  buôn lậu đường dài. Càng ngày càng lấn sâu vào chốn giang hồ phạm  pháp, tên tuổi của trùm Nhân nổi tiếng khắp chốn giang hồ là một đại ca mưu mô tuyệt diệu mà võ công lại vô cùng thâm hậu, được đàn em vô cùng quý mến, tôn sùng. Tiền bạc vô ào ào. Nhớ bạn đang nghèo nhưng mặc cảm đang là thằng tướng cướp nên chẳng dám về tìm lại.  




Giang hồ có lãnh địa riêng, bán buôn cũng chia từng khu vực, các băng 

nhóm không được xâm phạm, vi phạm là sẽ có máu đổ ngay. Nhưng không lấn sân nhau thì không tồn tại và phát triển được, nên đụng độ nhau là chuyện không thể tránh. Sau mấy tháng làm đại ca, một cuộc tranh chấp 

lãnh thổ và mối lái giữa băng của Nhân và băng ALũ xảy ra. Đây sẽ là trận lớn, cả hai bên trang bị mã tấu, ống nước inox, dao bầu, kiếm nhọn. Một trận huyết chiến, một mất một còn, máu me tràn ngập chắc chắn sẽ không tránh khỏi. A Lũ là một đại ca máu mặt ở vùng này, trước tháng 4.75 là trùm khu Chợ Lớn – Phú Lâm, bị Ban bài trừ du đãng của cảnh sát Sài Gòn bắt giam ở Chí Hòa, được thoát ra trưa 30. Hắn ngứa mắt trước ảnh hưởng càng ngày càng lan rộng của băng thằng Nhân, nên quyết đấu.  




Nhân không muốn cuộc chiến diễn ra ồn ào, công an xuất hiện là điều bất lợi cho bản thân hắn và lũ đàn em, nên đến gần giờ máu đổ, Nhân đề nghị đấu tay đôi với A Lũ. Bên nào thắng sẽ được trọn quyền hoạt động toàn khu, bên thất bại sẽ giải tán hoặc gộp chung thành đàn em của băng thắng. A Lũ đồng ý ngay, bởi hắn là một tay võ sư có hạng của võ Thiếu Lâm. Hắn nhìn thân hình hơi thấp và dáng thư sinh của Nhân nên có vẻ xem thường. Cuộc đấu tay đôi sẽ diễn ra trong nghĩa địa nhị tì khu cây da xà lúc nửa đêm.  




Hai thằng đúng là kỳ  phùng địch thủ, bất phân thắng bại. Hơn nữa, Nhân cố tránh không sử dụng đòn chí mạng, chỉ muốn làm cho A Lũ và đám đàn em hắn tâm phục khẩu phục, nên cuộc chiến kéo dài hơn tiếng đồng hồ.  Hai bên ra lệnh không được hò reo, tránh sự chú ý. A Lũ đúng là một tay võ lâm đầy tài nghệ. Hắn tránh được nhiều đòn của Nhân và cũng phản đòn rất dũng mãnh. Cuối cùng, không muốn kéo dài cuộc chiến, Nhân phải sử dụng đến ngón đòn giết người rất nguy hiểm. Hắn bấm mình bay đến bức tường sau lưng A Lũ, chạy như gió trên tường rồi bắn ngược trở lại, tung cước ngay đầu A Lũ, A Lũ gục xuống như thân chuối bị đốn. 

Đấu trường xôn xao. Cùng lúc ấy có tiếng chân chạy sầm sập, tiếng còi thổi và bóng nhiều công an xuất hiện ở cổng nghĩa trang. Cả bọn tháo  chạy. A Lũ cố gượng dậy nhưng không nhấc mình lên được. Đã chạy đi rồi, quay nhìn lại thấy A Lũ quằn quại không gượng dậy nổi, Nhân quay lại cõng A Lũ trên vai và cố thoát khỏi vòng vây. Nhưng không kịp. Ba  công an kềm sát chân anh, ôm chặt lấy Nhân, quật xuống và tra còng….  




Nhân bị giam ở đồn hai ngày, hai tay bị còng vào song cửa sổ, chờ  xe chở về Đắc Nông, nơi tập trung đám giang hồ bị bắt cải tạo lao động. Bọn đàn em bắn tin sẽ tìm cách giải cứu đại ca, đồng thời báo cho biết A Lũ chỉ bị trọng thương, đang nằm ở bệnh viện, công an canh giữ sát sao, nhưng liệt nửa người dặt dẹo. Thời đó chẳng có tòa án, cũng chẳng xét hỏi, lập hồ sơ, cứ thế mà đi thẳng vào trại, chẳng biết ngày về.


Nhân nghĩ chỉ có giải pháp duy nhất là phải trốn thôi, không thể giam mình trong trại không lối thoát như thế được. Nửa đêm đó, chờ mọi người ngủ say, Nhân lấy hết sức bình sinh, bẻ song cửa sổ, hai tay còn dính còng, trốn thoát. Anh chạy về sào huyệt báo tin cho đàn em, từ  biệt chúng, chia chác tiền bạc và sáng hôm sau đi tìm tôi. Và chúng tôi đã gặp nhau ở dốc chân cầu Trương Minh Gỉang, khi tôi chuẩn bị tuột dốc.  




Tôi hỏi Nhân: 

- Cậu mua vé tàu xe gì chưa? 

Nhân bảo: 

- Mình tránh mua vé, sợ bị lộ. Mình sẽ đi bộ về Đà Nẵng, gặp đâu xin đi đó, được đoạn nào hay đoạn đó, chứ đi tàu dễ bị xét hỏi lắm, chắc là khó thoát.


Và chúng tôi chia tay nhau. Lúc ấy là cuối năm 1976.  




6.


Tôi được ghi tên đi học lại, khóa chúng tôi được nhập chung với sinh viên Sư phạm thành trường Đại học Sư Phạm Thành phố. Nhờ số tiền Nhân đưa, tôi sống được thời gian dài, dù cũng chỉ tạm đủ ngày hai bữa cơm rau ở căn tin và qua lần đổi tiền lần thứ hai 1978. Cuộc sống trôi đi,  học hành rồi ra trường, tôi ra trường cũng gặp chút khó khăn lúc phân công tác. Lí lịch xấu quá, đen thui. Con công chức cao cấp chế độ cũ.  Bản thân thiếu phấn đấu. Nhưng rồi trời thương, được vài người giúp  đỡ, tôi được phân công về dạy ở một trường cấp 3 heo hút ở Củ chi.  Cuộc sống cũng được cho là ổn. Tôi cố tìm cách liên lạc với gia đình, nhưng thư gởi đi mà không có hồi âm. Tôi cũng chẳng nhận được lá thư  nào từ Pháp gởi về. Cũng chẳng nhận được chút tin tức nào của Nhân. 

Tất cả im lìm như nấm mộ.  




Đầu năm 1978, tôi nhận được một lá thư từ nước Pháp. Lá thư của em gái tôi, cô em duy nhất mà khi tôi rời Việt Nam, em mới 14 tuổi. Em gởi từ Mỹ qua địa chỉ cũ của tôi ở Montpellier từ cuối năm 1975, nay tôi mới  nhận được. Trong thư em báo tin đã di tản qua Mỹ từ tháng 4.1975, hiện ở New Hampshire, miền đông nước Mỹ đồng thời cho biết ba tôi đang bị  học tập cải tạo tại Hàm Tân. Tôi chạy ra Hàm Tân thì được tin ba tôi  đã bị chuyển ra Bắc, đang ở Hà Nam Ninh. Mùa hè năm 1978 tôi ra bắc,  lên Hà Nam Ninh thăm nuôi ba nhưng không được gặp mặt, đến năm sau ra lần nữa thì được tin ba tôi đã chết trong trại. Trên đường từ bắc xuôi 

nam, tôi dự định ghé Đà Nẵng thắp nhang cho mẹ thì lại biết rằng nghĩa  trang Nam Ô, nơi mẹ tôi nằm đã bị qui hoạch, mộ mẹ tôi không biết tìm đâu? Như vậy, từ khi rời Đà Nẵng năm 1968, tôi chưa trở lại chốn này  lần nào. Bởi chẳng còn gì để tôi trở lại, cha mất chưa tìm được xác ở  chốn xa xôi. Mộ mẹ bị san bằng không dấu vết. Nhà cửa không còn. Trở  lại chỉ thêm buồn đau và hờn tủi.  




Tôi lập gia đình, sinh con. Quẩn quanh với cuộc sống từ những khó khăn và thiếu thốn. Cuộc sống cứ thế trôi đi. Những kỷ niệm của ngày xưa lần hồi phôi pha. Phải tập quên để sống. Phải cứ hướng tới phía trước  để tồn tại. Cho đến 2010, khi tôi tròn 60 tuổi, về hưu, con cái cũng  đã lớn, đã yên bề gia thất. Nhiều đêm không ngủ được, tuổi mới chớm già mà cứ nhớ đến quá khứ đến quắt quay. Tôi nhớ Nhân, nhớ đến những năm tháng đã qua đi và sẽ không còn trở lại. Không biết bây giờ Nhân sống ra sao, còn ở Việt Nam hay đã trôi dạt xứ nào. Thời gian quá dài, quá nhiều đổi thay, quá nhiều bất trắc. Không biết những nơi chốn xưa có còn như cũ nữa không? Biết bao là hình ảnh, biết bao là câu hỏi cứ quẩn quanh….Tôi mua vé bay về Đà Nẵng, tìm lại kỉ niệm xưa, đồng thời tìm lại người bạn thân yêu đã một thời gắn bó.


Thành phố không còn như  cũ nữa, nhiều đổi thay. Những dấu vết kỉ  niệm đã bị mất dấu. Tôi ngu ngơ giữa thành phố xa lạ. Chẳng gặp người quen, chẳng tìm ra cảnh cũ.  




Tôi lang thang quẩn quanh ở  chợ Cồn, nơi ngã tư. Chỗ đó hồi xưa là  nơi  thường ngày tôi qua. Ngày xưa, bên này là cây xăng, bên kia là cư xá Đoàn Kết của quân đội, bên kia đường là nhà sách Văn Hóa, nơi tôi thường mua sách. Xuống một chút là cà phê Xướng, nơi bán những li cà phê đượm hương beurre Bretel và bánh mì thịt thơm nức mũi ba tôi thường ăn mỗi sáng. Đi qua đường rầy của đường Hùng Vương, có xưởng vẽ của họa sĩ Trần Viết Hậu, người họa sĩ già mà ngày nào đi học ngang qua, tôi cũng dừng chân đứng lại một chút để nhìn ông ta vẽ, tôi mê hội họa từ những nét vẽ của ông. Tất cả biến mất, chẳng còn dấu vết. Tôi đi loanh quanh cả chục lần chốn cũ mà không tìm thấy chút hình ảnh  nào sót lại. Ở góc phố, tôi dừng lại mua gói thuốc. Ông già bán thuốc  tóc bạc chải mượt có khuôn mặt rất quen, quen lắm, nhưng tôi vẫn chưa nhớ ra được. Tôi băng qua đường, đốt thuốc nhìn qua. Ông già đốt thuốc hút, hai ngón tay cầm điếu thuốc hững hờ, điệu nghệ. Nhìn hình ảnh đó, tự nhiên gợi tôi nhớ đến một người, tôi băng nhanh qua đường, ôm lấy  vai người bán thuốc: Thầy Thanh, Thầy Thanh, phải Thầy không? Thầy nhớ con không?  




Thầy Thanh ngỡ ngàng nhìn tôi, ngờ ngợ: 

- Phải, tôi là Thanh đây, trước đây tôi có thời dạy học. Anh là ai mà biết tôi? 

- Con là Ngọc. Ngọc con ông Đốc Kim, học trò của thầy hồi đó. 

Thầy ôm vai tôi, ngấn nước mắt: 

- Tôi nhớ ra rồi… Anh về  hồi nào?...Trời ơi lâu quá rồi, lâu quá rồi…  




Mấy chục năm rồi nhỉ? Phải hơn bốn chục năm rồi. Đúng không?


Tôi và thầy Thanh ngồi trong quán cà phê, nhắc hoài chuyện cũ. Nhắc đến người đi, kẻ ở, kẻ mất người còn. Nhắc đến những đổi thay. Tôi hỏi thầy có nhớ Nhân không, thầy bảo làm sao quên được người học trò đặc biệt ấy. Thầy cho biết bây giờ Nhân khó khăn lắm, cũng khó gặp vì Nhân tìm đủ cách để tránh mọi người. Nghe như Nhân đạp xe ba gác chở rau ở chợ Thanh Khê, đến đấy tìm chắc gặp. Thầy còn cho biết Hồ Lê bây giờ  làm chức lớn lắm, cũng có ghé Thầy mấy lần, có khi còn tặng quà.


Tôi tìm về chợ Thanh Khê, hồi xưa đây là xóm chài ven biển, nghèo lắm. Bây giờ nhà cửa cao ngất như phố thị. Lân la ở chợ, hỏi nhiều người tôi tìm vào nhà Nhân men theo con đường nhỏ loằng ngoằn, sâu trong mấy cánh đồng còn sót lại, nhà cửa thưa thớt, chung quanh toàn rác rưởi. Căn nhà như cái lều, phía trước có khoảnh sân nhỏ, rào thưa. Con chó gầy còm đang phơi nắng thấy người lạ cất tiếng sủa yếu ớt. Sân vắng, tôi gọi mãi không thấy ai. Một lát sau, một cái đầu bù rối hiện ra nơi  khung cửa cất tiếng ồm ồm: Hỏi ai? Tôi bảo: Tìm Nhân. Lại cái giọng  ấy: Nhân đi vắng rồi.  




Người đàn bà hiện ra, khuôn mặt lộ diện dưới ánh nắng. Một khuôn mặt rất quen. Tôi nghĩ vẫn chưa ra. Tôi bảo: Khi nào thì Nhân về. Tôi đợi được không? Người đàn bà nhìn tôi trân trân. Khuôn mặt quen lắm. Tôi  vẫn chưa nhớ ra nổi khuôn mặt rất quen này. Tôi chào và đi ra ngõ. Con  chó lười biếng không tiếng sủa. Người đàn bà nhìn theo lẩm bẩm chi đó không nghe được.  




Tôi ngược ra đầu ngõ, ngồi  ở quán bên đường, đợi Nhân.


Tôi đốt đến điếu thuốc thứ ba thì trí nhớ vỡ oà. Đúng là chị Đầm rô. Chị Đầm rô bán quán chè đậu rất ngon, giọng nói ồ ề. Chị Đầm rô dạy tôi hút thuốc lá. Chị Đầm rô có ánh mắt ngưỡng mộ Nhân. Phải rồi. Đúng là khuôn mặt của chị Đầm. Nhưng sao chị lại ở trong nhà của Nhân?


Tôi không cách gì nhận ra Nhân. Nhân ngồi đó, trên chiếc ghế đẩu trơ trọi giữa sân, trong ngôi nhà có khoảnh rào thưa, dưới chân có con chó gầy gò quanh quẩn. Ly rượu cầm tay, miếng mồi chỉ là con cá khô nhỏ và dĩa ớt trái đỏ rực. Không còn nét nào của Nhân ngày xưa. Đó chỉ là lão nông ngồi uống rượu buổi chiều. Những lọn tóc duyên dáng cũ đâu mất rồi, chỉ còn một nhúm tóc lơ thơ lốm đốm bạc, bết lại nằm lạc lõng trên vầng trán hói. Đôi môi đỏ cũng đã không còn, chỉ còn lại một khóe miệng khinh bạc, thâm xì và móm mém, hàm răng trống rỗng khiến cho khuôn mặt như choắt lại. Da mặt bì bì, thâm tái, men mét của người mắc

bệnh gan kinh niên. Những nếp nhăn dồn dập làm cho khuôn mặt héo hon như trái táo tàu khô. Đôi mắt trũng, mờ tối, đầy khói u ám. Đâu mất rồi ánh mắt sáng rực đầy sát khí của Nhân bốn mươi năm trước. Siêu nhân đây ư? Tấm gương của nhiều bậc cha mẹ đây sao? Niềm mơ ước của nhiều người!!! Chỉ còn lại là một tấm thân tiều tụy và hom hem thảm sầu. Chắc chắn là không phải là sự tàn phá của thời gian. Thời gian không thể xóa hết dấu vết của một con người tàn nhẫn đến như thế. Chỉ có nỗi đau đớn của cuộc đời ,tuyệt vọng, tủi nhục, cay đắng và sự thất 

bại cùng cực mới làm cho một con người đổ gục đến vậy. Nhân hoàn toàn mang hình dáng của một con người khác.  




Tôi ôm Nhân, những giọt nước mắt trào ra ướt mặt. Từ thân thể Nhân bốc lên một mùi nằng nặng. Mùi chua của mồ hôi lâu ngày, mùi úng thối của rau củ, mùi rượu trộn lẫn với mùi bụi đời đắng cay. Tôi lại khóc. Tôi cầm lấy tay Nhân, bàn tay nhiều vết xước, màu da đen tái lốm đốm mủ cây trái, những móng tay cũng đầy nhựa, nứt nẻ, nhiều vết chai sần. 

Tôi nhìn xuống đôi chân của Nhân. Đôi chân cũng khẳng khiu, sứt sẹo, đen xì, những chiếc móng đầy cáu ghét, đôi dép đứt quai được buộc lại bằng sợi dây nhựa đỏ, đế mòn vẹt.Lúc đầu Nhân hững hờ ôm vai tôi, rồi bỗng siết chặt và người Nhân rung lên. Tôi khóc như trẻ con. Bỗng Nhân buông tay và nói như mắng: Đụ mẹ, mày vẫn như xưa, lúc nào cũng ẩm ướt.  




Tôi lại thêm một ngạc nhiên, không những Nhân đổi thay hình dáng, mà còn thay đổi luôn cách xưng hô, và biết chưởi thề. Suốt thời gian dài quen biết nhau, chưa bao giờ chúng tôi xưng hô mày tao với nhau, chỉ gọi nhau là cậu tớ, Tôi chưa một lần nghe Nhân buột miệng chưởi ai. Tôi trố mắt nhìn Nhân, trời ơi, Nhân ngày xưa đã chết thật rồi.  Biết đổ lỗi cho ai đây, hoàn cảnh, cuộc đời hay thời thế. Hay là đổ cho số phận.  




Tôi ở lại với Nhân ba ngày còn lại của chuyến đi. Ban ngày hai đứa lang thang với những chốn kỷ niệm cũ, lê la các hàng quán. Đêm về, hai đứa kể nhau nghe những chuyện của đời nhau, những chuyện đời buồn nhiều hơn vui. Tôi mua sắm nhiều vật dụng cần thiết của cuộc sống, chị Đầm rất vui khi nhận những món quà này, riêng Nhân vẫn dửng dưng…  




7.


Hồi đó, cuối năm 1976, Nhân vội vã trở về Đà Nẵng để trốn lệnh truy nã. Chuyến đi kéo dài hơn tuần lễ. Đón xe dọc đường từng chặng, có khi đi bộ suốt buổi. Suốt đoạn đường cũng chẳng có chuyện gì. Nhưng hôm từ Bình Định về Quảng Ngãi, sau một bữa nhậu say quắc cần câu với cánh tài xế, sang hôm sau khi tỉnh rượu, Nhân thấy mình nằm ở vệ đường ở Mộ Đức, tiền bạc trong túi bị tước hết. Hai tên tài xế cho Nhân đi nhờ biến đâu mất. Cũng may, Nhân đã chia nhỏ bó tiền, để mỗi nơi một chút, nhờ vậy, cũng còn chút tiền dấu trong đôi giày, dù không nhiều lắm. 

Đến Đà Nẵng nửa đêm, căn nhà cũ của gia đình nay đã biến thành cơ quan của chính quyền mới. Lang thang suốt đêm, thấy mình như kẻ xa lạ ở một thành phố khác. Lân la quán cà phê gần ngôi nhà cũ từ tờ mờ sớm, Nhân biết được gia đình mình đang ở trong một con kiệt nhỏ cuối đường Hoàng Diệu, gần đường rầy xe lửa. Ngôi nhà ngày xưa đã bị trưng dụng từ khi cách mạng về, ba Nhân nhờ ngày trước có tham gia kháng chiến chống Pháp, trước 75 cũng có thành tích nuôi dấu cán bộ gì đó, nên không bị đi học tập cải tạo, nhưng không được sử dụng.  




Nhân vừa bước vào ngõ, ba Nhân  đã nhận ra ngay. Ông cuống quit ôm lấy Nhân, miệng cứ lập lại mãi một câu hỏi: Về lúc nào? Sao lại về? Về lúc nào? Hành lí đâu? Nhân cũng ôm lấy cha, nước mắt giàn giụa: Ba ngồi xuống đây nghe con nói, ba ngồi xuống đi. Nhân quì dưới đất, lạy mấy lạy. cứ lập đi lập lại: Ba ơi, con bất hiếu không làm được ước nguyện của ba rồi, rồi lại lạy. Ông Đốc ngồi sững sờ, mang máng hiểu đã có một tai họa tày trời. Niềm tin của ông, lẽ sống của ông. Sao lại thế này? Nhân vừa khóc, vừa lạy, vừa kể hết mọi chuyện. Lâu lâu lại nấc lên, nước mắt đầy mặt. Ông Đốc có cảm giác như ngàn lưỡi dao đâm vô ngực, xoáy mạnh. Tai lùng bùng, trái tim như đang có bàn tay ai bóp nghẹt. Đầu óc choáng váng, trái đất như sụp dưới chân ông, ông thấy khó thở, trước  mặt chỉ là một khoảng tối vô tận. Nhân kể lể không biết bao lâu, không thấy ông Đốc động tĩnh gì. Nhân ngước lên, nắm lấy tay cha. Anh hoảng hốt như điện giật, tay ông Kim lạnh ngắt như nước đá, cứng đờ. Nhân hốt hoảng ngồi lên, nhìn thấy khuôn mặt trắng bệt, hai mắt mở trừng trừng của ba mình, anh hét lên: Ba ơi, con giết ba rồi, ba ơi!!! Ông Đốc đã tắt thở từ lúc nào, mặt đanh lại, hai mắt vẫn mở, hai hàm răng nghiến chặt, giận dữ.  




Đám ma diễn ra lạnh lẽo, chỉ còn hai anh em: Nhân và cô em gái. Cô em kế Nhân bị bệnh thần kinh không biết lang thang ở đâu mà bị cưỡng hiếp có bầu, rồi băng huyết lúc sinh, chết hồi đầu năm. Đứa em bị bệnh down thì mất tích trong những ngày chộn rộn cuối tháng ba năm bảy lăm. 

Thằng em trai kế Nhân nghe nói đi bộ đội đóng ở Tây Ninh, nhưng chẳng có địa chỉ liên lạc. Hôm đưa đám trời lại mưa suốt buổi, hai anh em mặc áo xô, chống gậy trông thảm thiết giữa đồng trống. Nhân không khóc, nhưng hai mắt đỏ ngầu.  




Đám tang xong xuôi, Nhân đi tìm Dạ Lan. Gia đình Dạ Lan cũng lâm vào bi kịch. Hôm Dạ Lan về Huế thăm bà ngoại, gia đình ông Bửu Hân tổ chức vượt biên. Hai vợ chồng và cậu con trai bị bão tố dìm xác xuống đáy biển, chuyến đi đó chỉ có mấy người được tàu lớn cứu thoát, tạm ngụ ở  Hồng Kông. Nhà bị tịch thu vì tội phản quốc. Dạ Lan xin được ở lại trong căn phòng nhỏ dành cho người giúp việc ở góc sân cùng với cây  đàn piano. Không biết vì lí do nào, những người phụ trách cũng chấp nhận.  




Nhân nhiều lần tìm đến chỗ ở của Dạ Lan, nhưng nàng không tiếp, cứ trốn tránh mãi. Sau cùng, hai người gặp mặt nhau, Dạ Lan cho biết nàng đang mang thai, nhưng không cho biết cha đứa bé là ai. Sững sờ. Nhưng Nhân chấp nhận tất cả, chỉ mong ước được sống cùng nhau. Nhân cũng không tìm hiểu ai là cha đứa bé…Sau này, Nhân mới biết rằng cái bào thai là kết quả của cuộc trao đổi để nàng được ở lại căn phòng nhỏ đó cùng với cây đàn. 


Và hai người đồng ý  chung sống, không lễ cưới, không hôn thú, trong căn phòng chật hẹp dưới gốc cây ngọc lan, kết cục một cuộc tình như thế cũng là một đoạn kết đẹp vì lúc bấy giờ là thời kỳ loạn lạc, nhiều bất trắc.  




Nhưng cuộc sống không phải chỉ  có tình yêu là đủ. Nhân không tìm đâu được việc làm, vì cũng chẳng có giấy tờ chứng minh năng lực, lí lịch lại mù mờ mà cũng vì thời bấy giờ phải có mối quan hệ nhất định nào đó mới có thể kiếm được việc.. Loay hoay mãi với cơm áo, cuộc sống gia đình bắt đầu thiếu vắng tiếng cười. Lương cô giáo của Dạ Lan với tiêu  chuẩn mười ba kí gạo bây giờ phải chia ra cho hai người,  những bữa cơm toàn độn sắn khoai với bo bo, canh rau và cá hẩm Mùa đông năm đó, Dạ Lan bị tai nạn xe cộ lúc đi dạy học về, chiếc xe đạp cong niềng, gãy phuộc. Dạ Lan chỉ bị trầy sướt nhưng lại bị hư thai, máu nhuộm đỏ phần dưới cơ thể. Không biết kiếm đâu ra tiền, Nhân đành bán chiếc piano lấy chỉ vàng  lo thuốc men cho vợ. Ở bệnh viện về, biết chiếc đàn đã bị bán, Dạ Lan im lặng suốt cả tháng, chẳng hé một câu nào. Nhân thấy mình có lỗi, và Nhân nhớ dự định của mình khi bước đầu du học, sẽ mua cho Dạ Lan chiếc đàn piano tốt nhất lúc tốt nghiệp trở về.. Dự định không thực hiện được lại đem bán chiếc đàn kỉ niệm của Dạ Lan. Nhân cảm thấy mình hèn hạ và bất lực.

DanQuyen.com
    Phản Hồi Của Độc Giả Về Bài Viết
Họ và Tên
Địa chỉ
Email
Tiêu đề
Nội dung
Gửi cho bạn bè Phản hồi

Các bài viết mới:
    Nồng ấm Tết cổ truyền dân tộc Khmer Chôl Chnăm Thmây (10-04-2024)
    Du khách Hàn Quốc 'phải lòng' bãi biển cát mịn và làn nước trong xanh của Việt Nam (02-04-2024)
    Danh thắng địa chất độc nhất vô nhị: Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa (02-03-2024)
    Quảng Bình: Những con số 'biết nói' ở làng du lịch tốt nhất thế giới (18-02-2024)
    Báo Australia nêu '9 điều tuyệt vời nhất nên làm ở Việt Nam' (01-02-2024)
    Hơn 90.000 lượt du khách trong và ngoài nước đến Lễ hội Tết Việt (21-01-2024)
    Kinh nghiệm du lịch Bãi Sao Phú Quốc (08-01-2024)
    Hoa kiểng Sa Đéc mang lại hơn 6.000 tỉ đồng cho tỉnh Đồng Tháp (30-12-2023)
    Tàu Diamond Princess đưa khách du lịch trở lại Cố đô Huế (11-12-2023)
    Tà Xùa - Một trong những thiên đường săn mây đẹp nhất miền núi phía Bắc (11-12-2023)
    Chương trình quảng bá 'Miền Di sản Diệu kỳ' hứa hẹn thu hút du khách Malaysia (23-10-2023)
    Hải Dương giới thiệu nhiều sản phẩm OCOP, thủ công mỹ nghệ đặc sắc (28-09-2023)
    Phố đi bộ đậm chất châu Âu giữa lòng Hà Nội: Địa điểm check-in mới toanh cho giới trẻ (13-09-2023)
    Cặp bánh trung thu lớn nhất Việt Nam sẽ xuất hiện ở Festival Chí Linh – Hải Dương 2023 (11-09-2023)
    Thành phố nào của Việt Nam lọt top được yêu thích nhất châu Á năm 2023? (29-07-2023)
    3 điểm đến ở Việt Nam vào danh sách nơi tránh nóng lý tưởng ở châu Á (26-07-2023)
    Tạp chí Hàn Quốc nêu 5 lý do nên đến Nha Trang trong Hè này (24-07-2023)
    Câu chuyện ly kỳ của người đàn ông miền sơn cước tìm ra hang động lớn nhất thế giới (22-07-2023)
    Du khách reo hò khi bất ngờ gặp 'điềm may' cá nhám voi ở biển Kỳ Co - Eo Gió (20-07-2023)
    Người đàn ông 30 năm miệt mài xé quần jeans (20-07-2023)

Các bài viết cũ:
    ĐỖ DUY NGỌC hồi ký (phần 2) (26-04-2011)
    ĐỖ DUY NGỌC hồi ký (phần 1) (26-04-2011)
    Xuôi về Cà Mau ăn món trứng mực (17-04-2011)
    Khoái khẩu dê núi cố đô (17-04-2011)
    Lòng thả xứ Quảng - ăn và nhớ (28-03-2011)
    Ốc cừ hấp gừng (27-03-2011)
    Dân dã nhái đồng (25-03-2011)
    Một thời rau lang (23-03-2011)
    Lên Tây Bắc thưởng thức cá trê kho thập cẩm (21-03-2011)
    Dân dã cá mờm (16-03-2011)
    Bánh đa làng Kế (15-03-2011)
    Cơm hấp nước dừa (14-03-2011)
    Những món "đặc sản" quê dân dã mà ngon (14-03-2011)
    Món ngon không thể bỏ qua khi tới Huế (12-03-2011)
    Nhớ kẹo lạc quê nhà (11-03-2011)
    Bánh canh bột lộn (09-03-2011)
    Rộn ràng mùa cá cơm (04-03-2011)
    Đặc sản ốc gạo quê tôi (01-03-2011)
    Nhớ bánh gai của mẹ (25-02-2011)
    Dung dị canh cá khoai (18-02-2011)
 
"Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam".

Chuyển Tiếng Việt


    Truyện Ngắn
Xa Xóm Mũi


   Sự Kiện

Lời Di Chúc của Vua Trần Nhân Tôn





 

Copyright © 2010 DanQuyen.com - Cơ Quan Ngôn Luận Người Việt Hải Ngoại
Địa Chỉ Liên Lạc Thư Tín:
E-mail: danquyennews@aol.com
Lượt Truy Cập : 152813566.